Làng nghề tái chế nhựa trong bối cảnh thực thi EPR
Quá trình đô thị hóa đã đặt ra nhiều thách thức đối với phát triển kinh tế – xã hội. Bên cạnh việc mức sống, điều kiện sống của mọi người dân được cải thiện thì các mặt trái của quá trình phát triển cũng ngày càng bộc lộ rõ. Một trong những vấn đề nổi cộm trong các xã hội phát triển hiện nay là việc đối phó, xử lý với rác thải, đặc biệt là rác thải nhựa. Phát triển kinh tế tuần hoàn đi kèm với thực thi chính sách EPR được xem là một giải pháp hiệu quả để vừa đảm bảo phát triển sản xuất – kinh doanh, vừa hài hòa được các vấn đề xã hội – môi trường.
Tuy nhiên, với đặc điểm của nền kinh tế Việt Nam, khi hoạt động tái chế phát triển mạnh nhưng còn manh mún, tự phát, biểu hiện cụ thể tại các làng nghề tái chế, thì giải pháp EPR lại trở thành một thách thức. Dựa trên phân tích thực trạng tại một số làng nghề tái chế nhựa điển hình, nhóm tác giả đánh giá các biểu hiện cụ thể của thách thức này, từ đó, đưa ra một số khuyến nghị nhằm hướng các làng nghề vào mục tiêu chung là phát triển bền vững.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Khái niệm “kinh tế tuần hoàn” đã được nhắc tới từ năm 1990, kèm theo đó là nhiều nội dung xoay quanh làm phong phú thêm nội hàm tuần hoàn các vấn đề kinh tế. Bước sang thế kỷ XXI, biến đổi khí hậu ngày càng gay gắt, kèm theo đó là dịch bệnh diễn biến khó lường khiến cho việc phát triển “kinh tế tuần hoàn” càng trở nên cấp thiết. Với đặc điểm phát triển các hoạt động kinh tế tách khỏi việc khai thác, tiêu thụ các nguồn tài nguyên hữu hạn, kinh tế tuần hoàn là một hệ thống có khả năng phục hồi tốt cho doanh nghiệp, con người và môi trường.
Kinh tế tuần hoàn được xây dựng dựa trên 3 nguyên tắc cơ bản (3Rs), bao gồm: giảm thiểu rác thải và ô nhiễm, quay vòng sử dụng sản phẩm và nguyên vật liệu với giá trị cao nhất của chúng và tái tạo tự nhiên. Theo Lại Văn Mạnh (2022), thời gian gần đây, một số nhà nghiên cứu phân tích kinh tế tuần hoàn theo 9 nguyên tắc (9Rs) dựa trên 3 nguyên tắc cơ bản nêu trên. Các nguyên tắc này chia thành 03 nhóm tiếp cận. Nhóm tiếp cận Sử dụng và sản xuất sản phẩm thông minh hơn gồm: Từ chối (R1), tức là làm cho sản phẩm trơ nên dư thừa bằng cách loại bỏ một số chức năng hoặc đưa ra sản phẩm khác với cùng chức năng; Thay đổi tư duy (R2); Giảm thiểu (R3). Nhóm tiếp cận Kéo dài vòng đời sản phẩm gồm: Tái sử dụng (R4); Sửa chữa (R5); Tân trang (R6); Tái sản xuất (R7). Nhóm tiếp cận Ứng dụng vật liệu hữu ích gồm: Tái chế (R8); Thu hồi (R9). Trong bài viết này, nhóm tác giả sẽ tập trung phân tích theo 3 nguyên tắc cơ bản là 3Rs.
Trong 3Rs, nguyên tắc quay vòng sử dụng sản phẩm đang được quan tâm đặc biệt từ góc độ quản lý vĩ mô cho đến cấp độ vi mô là doanh nghiệp, người tiêu dùng. Trong một nền kinh tế tuần hoàn, một đặc điểm kỹ thuật cho bất kỳ thiết kế nào là các vật liệu sẽ quay trở lại nền kinh tế khi hết thời gian sử dụng. Kinh tế tuần hoàn là biến rác thải đầu ra của ngành này thành nguồn tài nguyên đầu vào của ngành khác hay tuần hoàn trong nội tại bản thân của một doanh nghiệp. Kinh tế tuần hoàn một phần góp phần gia tăng giá trị cho doanh nghiệp, giảm khai thác tài nguyên, giảm chi phí xử lý chất thải, giảm thiểu ô nhiễm môi trường.
Nhiều sản phẩm có thể được lưu thông bằng cách duy trì, chia sẻ, tái sử dụng, sửa chữa, tân trang, tái sản xuất và, phương sách cuối cùng là tái chế. Thực phẩm và các vật liệu sinh học khác an toàn khi trở về tự nhiên có thể tái tạo đất, thúc đẩy sản xuất thực phẩm và vật liệu mới.
Nguyên tắc thứ hai của nền kinh tế tuần hoàn là luân chuyển sản phẩm và nguyên vật liệu với giá trị cao nhất của chúng. Điều này có nghĩa là giữ nguyên vật liệu được sử dụng, dưới dạng một sản phẩm hoặc khi không thể sử dụng được nữa, như các thành phần hoặc nguyên liệu thô. Bằng cách này, không có gì trở thành chất thải và giá trị nội tại của sản phẩm và nguyên liệu được giữ lại.
Nguyên tắc thứ ba của nền kinh tế tuần hoàn là tái tạo tự nhiên. Bằng cách chuyển trọng tâm nền kinh tế từ tuyến tính sang tuần hoàn, từ khai thác sang tái tạo, thay vì liên tục làm suy thoái thiên nhiên, kinh tế tuần hoàn có thể xây dựng và phát triển vốn tự nhiên.
Cùng với ba nguyên tắc trên, việc xây dựng và phát triển kinh tế tuần hoàn được dựa trên 4 tiêu chí cơ bản. Thứ nhất là giảm khai thác, sử dụng nhiên liệu hóa thạch, rừng tự nhiên, nước; tăng hiệu quả sử dụng tài nguyên, nguyên liệu thô, vật liệu. Thứ hai là kéo dài vòng đời sản phẩm, thời gian lưu giữ vật liệu trong nền kinh tế thông qua các hoạt động: thiết kế, sản xuất và lựa chọn vật liệu phù hợp; ưu tiên sửa chữa và hạn chế thay thế; tăng khả năng tái sử dụng sản phẩm, cấu kiện và vật liệu; tăng khả năng tái chế chất thải để thu hồi vật chất, năng lượng. Thứ ba là hạn chế chất thải phát sinh thông qua hoạt động đổi mới công nghệ, giảm thiểu, tái sử dụng, tái chế chất thải và các giải pháp khác. Cuối cùng là giảm thiểu tác động xấu đến môi trường, bao gồm: giảm phát sinh chất ô nhiễm; giảm sử dụng hóa chất độc hại; giảm mức độ suy thoái của hệ sinh thái; giảm phát thải khí nhà kính; bảo tồn đa dạng sinh học; tiết kiệm năng lượng.
Để thực thi được 3 nguyên tắc, cũng như liên quan ¾ tiêu chí của nền kinh tế tuần hoàn, chính sách mở rộng trách nhiệm của nhà sản xuất đã và đang được thực thi phổ biến ở nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam.
LÀNG NGHỀ TÁI CHẾ NHỰA VÀ CHÍNH SÁCH MỞ RỘNG TRÁCH NHIỆM CỦA NHÀ SẢN XUẤT
Mở rộng trách nhiệm của nhà sản xuất (EPR – Extended Producer Responsibility) là nhà sản xuất có trách nhiệm đối với sản phẩm của mình, trách nhiệm đó được mở rộng đến giai đoạn sau sử dụng nhằm thu gom được ở giai đoạn cuối của vòng đời sản phẩm để có thể phân loại trước khi xử lý, chủ yếu là tái chế.
Nguồn: Nguyễn Thi, năm 2021
Quy định về EPR đã được cụ thể hóa trong Luật Bảo vệ môi trường năm 2020. Cụ thể, Điều 54 quy định: tổ chức, cá nhân nhập khẩu có trách nhiệm tái chế theo tỷ lệ và quy cách bắt buộc đối với sản phẩm, bao bì có giá trị tái chế; Điều 55 quy định: tổ chức, cá nhân nhập khẩu có trách nhiệm đóng góp tài chính đối với trường hợp sản phẩm, bao bì chứa chất độc hại, khó có khả năng tái chế hoặc gây khó khăn cho thu gom, xử lý.
Nhà sản xuất, nhập khẩu có hai hình thức để thực hiện trách nhiệm của mình:
Một là, tổ chức tái chế với 3 lựa chọn bao gồm tự tổ chức tái chế, thuê đơn vị tái chế có đủ điều kiện và ủy quyền cho tổ chức trung gian (bên được ủy quyền). Trong đó, điều kiện để đơn vị tái chế, tự tái chế là nhà sản xuất, nhập khẩu phải phải bảo đảm các yêu cầu về bảo vệ môi trường theo quy định của pháp luật; không tự thực hiện tái chế khi không bảo đảm các yêu cầu về bảo vệ môi trường theo quy định.
Điều kiện đối với bên được ủy quyền tổ chức tái chế là: có tư cách pháp nhân và được thành lập theo quy định của pháp luật; không trực tiếp tái chế và không có quan hệ sở hữu với bất kỳ đơn vị tái chế nào liên quan đến phạm vi được ủy quyền; được ít nhất 03 nhà sản xuất, nhập khẩu đồng ý ủy quyền tổ chức tái chế.
Hai là, đóng góp tài chính vào Quỹ bảo vệ môi trường Việt Nam. Tuy nhiên, đây không phải là lựa chọn mà Nhà nước khuyến khích doanh nghiệp thực hiện, Nhà nước mong muốn doanh nghiệp tự tổ chức tái chế hoặc thông qua tổ chức trung gian, cụ thể là tổ chức trách nhiệm nhà sản xuất (PRO – Producer Responsibility Organisation). Mặc dù mức đóng góp tài chính vào Quỹ bảo vệ môi trường sẽ có xu hướng tăng dần, nhưng việc doanh nghiệp tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp hoạt động tái chế sẽ có nhiều giá trị trong nâng cao nhận thức, hiệu quả của hoạt động tái chế.
Như vậy, với quy định của Luật Bảo vệ môi trường cũng như chính sách EPR, tham gia vào hoạt động tái chế sẽ có sự xuất hiện của các đơn vị tái chế và khu vực phi chính thức. Trong đó, với thực tiễn tại Việt Nam, khu vực phi chính thức tham gia hoạt động tái chế là hình thức phổ biến, còn được gọi là làng nghề tái chế.
Làng nghề tái chế trong bối cảnh thực thi chính sách EPR
Tổng quan về làng nghề ở Việt Nam
Làng nghề được định nghĩa trong Nghị định số 52/2018/NĐ-CP của Chính phủ ngày 12/4/2018 về phát triển ngành nghề nông thôn là một hoặc nhiều cụm dân cư cấp thôn, ấp, bản, làng, buôn, phum, sóc hoặc các điểm dân cư tương tự tham gia hoạt động ngành nghề nông thôn quy định tại Nghị định. Theo đó, hiện nay, ngành nghề nông thôn được chia ra 7 nhóm gồm: i) làng nghề chế biến, bảo quản nông, lâm, thủy sản; ii) làng nghề sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ (chạm khắc…); iii) làng nghề xử lý, chế biến nguyên vật liệu phục vụ sản xuất ngành nghề nông thôn; iv) sản xuất đồ gỗ, mây tre đan, gốm sứ, thủy tinh, dệt may, sợi, thêu ren, đan lát, cơ khí nhỏ; v) sản xuất và kinh doanh sinh vật cảnh; vi) sản xuất muối; vii) các dịch vụ phục vụ sản xuất, đời sống dân cư nông thôn.
Để được công nhận là làng nghề, địa phương phải đạt được đồng thời cả 03 tiêu chí: i) Có tối thiểu 20% tổng số hộ trên địa bàn tham gia một trong các hoạt động hoặc các hoạt động ngành nghề nông thôn quy định tại Điều 4 Nghị định này; ii) Hoạt động sản xuất, kinh doanh ổn định tối thiểu 02 năm liên tục tính đến thời điểm đề nghị công nhận; iii) Đáp ứng các điều kiện bảo vệ môi trường làng nghề theo quy định của pháp luật hiện hành.
Theo Đặng Kim Chi (2022), hiện có 1.951 làng nghề, làng nghề truyền thống được công nhận, trong đó có 1.062 làng nghề mới và 889 làng truyền thống. Cụ thể, làng nghề chế biến, bảo quản nông, lâm, thủy sản có 640 làng nghề, chiếm 32,8%; làng nghề sản xuất đồ gỗ, mây tre đan, gốm sứ thủy tinh, dệt may sợi, thêu ren, đan lát có 935 làng nghề, chiếm 47,9%; các nhóm làng nghề còn lại chỉ chiếm 19,28% (với 376 làng nghề). Tuy số lượng hạn chế nhưng làng nghề tái chế lại đóng vai trò quan trọng trong mục tiêu phát triển kinh tế tuần hoàn, đặc biệt là trong thực thi chính sách EPR.
Làng nghề tái chế đóng vai trò quan trọng trong việc khép kín chu trình vòng đời một loại sản phẩm, giúp giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập cho người dân địa phương. Người tái chế hoặc hộ gia đình, doanh nghiệp tái chế có thể mua phế liệu từ đồng nát, bãi phế liệu, các nguồn nhập khẩu, rồi xử lý chúng thành nguyên liệu thô phục vụ sản xuất tiếp hoặc sản phẩm hoàn chỉnh để bán trở lại cho thị trường.
Theo Báo cáo hiện trạng môi trường Việt Nam, việc tái chế phế liệu đã tạo ra hàng trăm nghìn tấn sắt thép xây dựng, các sản phẩm mỹ nghệ, đồ dùng, dụng cụ gia dụng… cho thị trường tiêu thụ trong nước, đặc biệt là ở khu vực miền Bắc.
Làng nghề tái chế hiện được chia thành 3 nhóm ngành cơ bản: tái chế giấy, tái chế kim loại, tái chế nhựa. Nhóm tái chế giấy có thể kể tới làng Phong Khê, làng Phú Lâm (Bắc Ninh)… Nhóm làng tái chế kim loại bao gồm làng Vân Chàng, làng Xuân Tiến (Nam Định), làng Đa Sỹ (Hà Nội), làng Đa Hội (Bắc Ninh), làng La Khê (Bình Định)… Nhóm làng tái chế nhựa tập trung nhiều ở miền Bắc như làng Minh Khai (Hưng Yên), Tràng Minh (Hải Phòng), Triều Khúc, Trung Văn (Hà Nội)… (Đỗ Trang, 2022).
Trong giới hạn bài nghiên cứu này, nhóm tác giả tập trung vào đánh giá làng nghề tái chế nhựa – làng nghề mới nhưng lại đang có nhiều vấn đề nổi cộm trong quá trình phát triển, đặc biệt là các vấn đề liên quan đến ô nhiễm môi trường, mối nguy về phát triển thiếu bền vững.
Thực tiễn hoạt động của làng nghề tái chế nhựa
Trong khi các làng nghề truyền thống thường gắn với các sản phẩm cụ thể dựa trên việc khai thác lợi thế sẵn có về điều kiện tự nhiên của địa phương, các làng nghề mới được hình thành hầu hết khởi đầu từ việc làm thêm vào mùa nông nhàn. Tuy nhiên, do quá trình đô thị hóa, cùng với việc hình thành ngày càng nhiều các khu công nghiệp, quỹ đất dành cho nông nghiệp thu hẹp dần; bên cạnh đó, việc làm nông vất vả, phụ thuộc vào thời tiết, thu nhập thấp, trong khi các việc làm thêm có thể mang lại thu nhập ổn định và cao hơn làm nông. Từ đó, việc làm thêm lại trở thành việc chính, lôi kéo ngày càng đông đảo người dân chuyển từ làm nông sang tham gia “làm thêm”. Các làng nghề tái chế nói chung và làng nghề tái chế nhựa nói riêng cũng được hình thành như vậy.
Nhựa là sản phẩm thiết yếu trong đời sống, len lỏi vào hầu hết các sản phẩm tiêu dùng. Mức sống tại các thành phố lớn ngày càng tăng, kèm theo đó là nhu cầu sử dụng các sản phẩm nhựa cũng tăng lên nhanh chóng. Nhu cầu sử dụng nhựa phế liệu trong sản xuất là rất lớn trong khi đó, Chính phủ đưa ra các quy định chặt chẽ hơn trong việc nhập khẩu phế liệu nhựa khiến cho cung có thể không đáp ứng được cầu. Theo đó, để nhập khẩu phế liệu nhựa, tổ chức, cá nhân nhập khẩu phế liệu phải có kho, bãi dành riêng cho việc tập kết phế liệu bảo đảm điều kiện về bảo vệ môi trường; có công nghệ, thiết bị tái chế, tái sử dụng phế liệu, xử lý tạp chất đi kèm phế liệu đạt quy chuẩn kỹ thuật môi trường; đặc biệt là phải ký quỹ 15% – 20% tổng giá trị lô hàng phế liệu nhựa nhập khẩu nhằm xử lý rủi ro, nguy cơ ô nhiễm môi trường có thể phát sinh từ lô hàng nhập khẩu. Những quy định này khiến cho không phải nhà nhập khẩu nào cũng đủ nguồn lực để đáp ứng được. Điều này vô hình chung khiến cho nhu cầu tái chế nhựa trong nước càng trở nên bức thiết, vai trò của các làng nghề tái chế nhựa càng trở nên quan trọng.
– Làng nghề Xà Cầu, Ứng Hòa
Xã Quảng Phú Cầu huyện Ứng Hòa, Hà Nội là địa phương nổi tiếng với nhiều nghề thủ công truyền thống, điển hình là làm hương, tăm tre, mây tre đan. Thôn Xà Cầu thuộc xã Quảng Phú Cầu vốn nghề làm hương có khoảng 800 hộ dân, trong đó hơn 170 hộ thu gom và tái chế phế liệu tại nhà (chủ yếu là tái chế nhựa). Mỗi ngày, các hộ dân trong thôn nhập khoảng 70 tấn phế liệu từ các địa phương khác (Nguyễn Thái Huyền, 2021).
Từ những năm 1970, người dân làng Xà Cầu làm nghề đổi dép, bắt đầu có tiếng trong việc thu thập các loại vật liệu tái chế. Những năm cuối 1990, người Xà Cầu học nghề tái chế nhựa từ làng Triều Khúc, nhanh chóng phát triển từ thu mua phế liệu nhựa đến tái chế thành các “bánh” nhựa bán cho các địa phương khác. Đến năm 2008, hoạt động thu mua phế liệu nhựa tại làng Triều Khúc có dấu hiệu suy giảm thì tại Xà Cầu đã phát triển nhanh chóng, tái chế nhựa chính thức trở thành sinh kế chính của người dân trong làng. Khi làng Xà Cầu phát triển nghề thu gom tái chế nhựa, các không gian chức năng trong làng dần bị thay đổi theo nhu cầu sản xuất của các hộ dân. Khu vực sơ chế nhựa có thể ở bên trong hoặc ngoài nhà dân. Việc phát triển bùng nổ nghề thu gom phế liệu nhựa không theo quy hoạch đã dẫn đến tình trạng ô nhiễm môi trường, phá vỡ cảnh quan môi trường sống, làm giảm chất lượng cuộc sống của người dân. Hơn nữa, với 30% đất sản xuất nông nghiệp quanh làng, tương đương với 180 ha đất nông nghiệp đang bị bỏ hoang không canh tác (Nguyễn Thái Huyền, 2021) do người dân tập trung vào hoạt động thu mua, phân loại và tái chế nhựa là những hệ lụy đe dọa khả năng phát triển bền vững của địa phương.
– Làng nghề Minh Khai (làng Khoai), Phân Bôi (làng Đan), thị trấn Như Quỳnh, huyện Văn Lâm (tỉnh Hưng Yên)
Làng Khoai và làng Đan đều là hai làng thuần nông, nông nghiệp là ngành nghề chính của người dân ở hai làng. Thu mua phế liệu nhựa hình thành như một nghề phụ đối với người lao động lúc nông nhàn. Đầu những năm 90, đất nông nghiệp tại làng Đan chuyển đổi sang đất công nghiệp để phát triển hai khu công nghiệp Phố Nối A và Phố Nối B khiến cho người dân chuyển đổi hoàn toàn từ nghề nông sang nghề tái chế nhựa. Trong khi đó, người dân làng Khoai đã bắt đầu đưa vào sử dụng máy móc, thiết bị tái chế nhựa. Người dân hai làng đã có sự phân công công việc khá rõ ràng, từ thu mua nhựa phế thải đến tái chế hạt nhựa, thổi túi nilon, sản xuất đồ dùng bằng nhựa… tạo thành một quy trình sản xuất thủ công khép kín.
Làng Minh Khai hiện có 868 hộ gia đình tham gia thu mua, phân loại, sơ chế, tái chế phế liệu nhựa, trong đó có khoảng 480 hộ trực tiếp sản xuất nhựa với công đoạn giặt, rửa, đùn, ép, tạo hạt nhựa từ phế liệu, biến làng nghề thành “công xưởng” khép kín vừa tái chế vừa sản xuất.
Nước thải từ quá trình này không được thu gom, xử lý mà thải trực tiếp ra môi trường với lưu lượng khoảng 7.000m3/ngày – đêm, cộng với lượng lớn rác thải làng nghề phát sinh khiến môi trường nơi đây luôn ngột ngạt.
Với gần 1.000 hộ, đa số làm nghề tái chế nhựa, làng Khoai đứng trong danh sách những ngôi làng ô nhiễm nhất cả nước. Theo tìm hiểu, mỗi ngày làng Khoai “nhập” khoảng 200 tấn rác phế liệu, rồi tái chế thành các loại đồ dùng mới như túi, túi ni-lông, dây buộc, đến cả ống nhựa PVC, cung cấp cho thị trường Hà Nội và các tỉnh lân cận.
Làng nghề tái chế phế liệu Phan Bôi có khoảng 110 hộ kinh doanh, vận chuyển và tái chế nhựa. Trong khi đó chỉ có khoảng 50% số hộ có giấy phép, còn lại làm ăn nhỏ lẻ và trung chuyển sản phẩm. Năm 2005, UBND Hưng Yên ra Quyết định số 4943/QĐ-UB ngày 19/12/2005 công nhận “làng nghề tái chế phế liệu Phan Bôi”. Hàng ngày, rác thải nhựa được thu gom từ mọi nơi, chuyển về Phan Bôi để phân loại, tái chế. Làng nghề nằm ngay trong khu dân cư, việc nước tẩy rửa khi xay nhựa đã xả thải thẳng ra khu dân cư gây ô nhiễm môi trường và bệnh tật. Đến năm 2019, UBND Hưng Yên lại ra Quyết định số 2826/QĐ-UBND, thu hồi bằng công nhận làng nghề nghề tái chế phế liệu Phan Bôi, phường Dị Sử, thị xã Mỹ Hào.
Đánh giá hoạt động tái chế nhựa tại các làng nghề
Xét về khía cạnh kinh tế, hoạt động tái chế nhựa đã góp phần không nhỏ vào cải thiện mức sống cho các hộ dân trong các làng nghề tái chế nhựa, hơn nữa, từ góc độ nền kinh tế quốc gia, nguồn nhựa tái chế thay thế cho vật liệu nguyên sinh đã tạo ra lợi ích kinh tế nhất định cho các hoạt động sản xuất – kinh doanh sử dụng nhựa. Hoạt động tái chế nhựa có thể được thực hiện theo một trong ba cách: tái chế cơ học, tái chế hóa học và tái chế nhiệt. Trong đó, phương pháp tái chế cơ học có cách thức thực hiện đơn giản nhất, không đòi hỏi sự đầu tư quá lớn về máy móc, thiết bị, trình độ lao động cũng chủ yếu là lao động chân tay nên là phương pháp được sử dụng phổ biến tại các làng nghề. Tuy nhiên, phương pháp này đã và đang gây ra những hệ lụy nghiêm trọng đến mục tiêu phát triển bền vững của địa phương.
Thứ nhất, tình trạng ô nhiễm môi trường nghiêm trọng
Thực hiện tái chế cơ học, nhựa phế liệu sau khi được thu mua sẽ được phân loại, xay nghiền rửa, phơi khô hoặc ép, đóng gói. Các công đoạn như làm sạch, xay tạo hạt… đều trực tiếp xả thải ra nguồn nước, gây ô nhiễm hóa chất và ô nhiễm vi nhựa trầm trọng. Thậm chí, nhiều rác thải khó tái chế còn được xử lý bằng cách đốt hoặc chôn lấp bừa bãi.
Quá trình tái chế phế liệu nhựa ngoài việc gây ra bụi, bẩn còn phải dùng rất nhiều hóa chất để tẩy rửa đã theo nguồn nước thải ra môi trường và theo năm tháng ngấm vào đất và nước sinh hoạt ảnh hưởng tới sức khoẻ của người dân. Đây chính là nguyên nhân làng Đan bị thu hồi bằng công nhận làng nghề tái chế phế liệu nhằm chấm dứt việc người dân phải sống chung với rác và đưa việc tái chế nhựa ra xa khu dân cư.
Tại một số làng nghề tái chế nhựa, nồng độ hơi khí độc hại hầu hết đều vượt tiêu chuẩn cho phép, cụ thể là: hàm lượng bụi khoảng 0,45 – 1,33 mg/m3 vượt TCCP 1,5 – 4,4 lần, THC = 5,36 mg/l vượt TCCP 1,16 lần. Làng nghề cơ khí, hàm lượng bụi tại khu trung tâm vượt TCCP 3 lần, SO2 vượt 5 lần TCCP, nước thải chứa axit, kim loại nặng, hàm lượng CN– vượt quá 65 – 117 lần TCCP (Đặng Kim Chi, 2022).
Thứ hai, xâm phạm cảnh quan, đời sống cộng đồng dân cư
Quy mô các nhà xưởng tái chế nhựa trong làng nghề đều nhỏ, không có khu sản xuất tập trung nên các hộ dân làm tái chế chủ yếu dựng lều, lán trên đất nông nghiệp để hoạt động. Ngoài việc cơ sở tái chế không tuân thủ quy định về phòng, chống cháy nổ, bảo đảm vệ sinh môi trường, tiếng ồn, khói, bụi…; việc tận dụng các khu vực công cộng làm nơi chứa hay phơi phế liệu cũng tạo nên hình ảnh thôn xóm nhếch nhác, đe dọa an toàn và sức khỏe của người dân.
Thứ ba, mai một bản sắc truyền thống của địa phương
Làng Khoai và làng Đan do ảnh hưởng của quá trình chuyển đổi từ đất nông nghiệp sang đất công nghiệp khiến cho quỹ đất phát triển nông nghiệp hạn chế; tuy nhiên, khả năng làm nông nghiệp không phải đã hoàn toàn biến mất. Còn tại Xà Cầu, do lợi ích tái chế nhựa quá cao so với làm nông nghiệp nên đất nông nghiệp bị bỏ hoang không canh tác. Tương tự như một số nghề thủ công truyền thống của địa phương cũng có dấu hiệu mai một dần do hiệu quả kinh tế thấp hơn so với làm tái chế nhựa. Điều này cũng có nghĩa là xu hướng phát triển làng nghề mới đã làm mai một làng nghề truyền thống.
Thứ tư, hạn chế trong nâng cao trình độ dân trí
Các công đoạn xoay quanh hoạt động tái chế không yêu cầu trình độ lao động cao, kỹ năng phải khéo léo, thậm chí chỉ cần kinh nghiệm truyền miệng cũng có thể làm tốt được. Chính vì vậy, giai đoạn đầu hoạt động thu mua nhựa phế liệu rồi tái chế tại các làng nghề đều được tiến hành bởi lực lượng lao động mùa nông nhàn, sau này thì làm việc dựa vào học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau. Thực trạng này dẫn đến hệ lụy là lực lượng lao động trong các làng nghề tái chế không ý thức được tầm quan trọng của việc được đào tạo, tập huấn các kỹ năng cũng như kiến thức liên quan một cách bài bản, từ đó hạn chế khả năng tiếp cận cũng như cách thức xử lý trước những biến động của thị trường, của hoạt động sản xuất kinh doanh.
MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ
Nhiều quan điểm cho rằng việc thực thi chính sách EPR không tạo ra mâu thuẫn lợi ích với các làng nghề tái chế ở Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, nếu đứng từ góc độ người dân làng nghề cũng như từ góc độ xã hội tại làng nghề, việc thực thi chính sách EPR tạo ra nhiều thách thức hơn là cơ hội.
Điều này xuất phát từ thực tế lao động tham gia trực tiếp các hoạt động tại làng nghề tái chế là lao động có trình độ thấp. Với trình độ lao động hạn chế, việc thích nghi với những thay đổi do thực thi chính sách EPR tạo ra không hề đơn giản. Quá trình này không chỉ đòi hỏi việc nâng cao nhận thức mà còn yêu cầu những hiểu biết, kiến thức, kỹ năng nhất định. Với nền tảng học vấn, kiến thức, kỹ năng như hiện nay của đại đa số lao động trong các làng nghề là hạn chế thì khả năng đáp ứng yêu cầu trở thành một bộ phận trong chính sách EPR là rất khó khăn. Chính vì vậy, nhóm nghiên cứu cho rằng để dung hòa giữa việc thực thi chính sách EPR một cách hiệu quả với việc không tạo ra những xáo trộn về mặt kinh tế – xã hội quá lớn tại các làng nghề, cần thực thi một số giải pháp sau:
Về phía Nhà nước, chính quyền địa phương:
Cần tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức, hiểu biết cho mọi người dân làng nghề về việc cần thiết phải chuyển đổi cách thức sản xuất – kinh doanh đáp ứng với yêu cầu thực thi chính sách EPR;
Chính sách hỗ trợ người dân tiếp cận với chính sách EPR, sàng lọc những hộ sản xuất có quy mô, trình độ, công nghệ có khả năng đáp ứng được yêu cầu trở thành nhà tái chế PRO;
Định hướng kèm theo những hỗ trợ đối với những hộ dân không đủ điều kiện chuyển đổi cách thức tham gia nếu tiếp tục theo nghề tái chế hoặc chuyển đổi sang lĩnh vực sản xuất – kinh doanh khác.
Về phía các hộ dân trong làng nghề tái chế:
Tăng cường liên kết, hợp tác với nhau nhằm tạo sự tập trung mạnh mẽ về quy mô, công nghệ để có thể đáp ứng được các yêu cầu trở thành các PRO trong thực thi chính sách EPR;
Nâng cao trình độ, hiểu biết về công nghệ tái chế theo hướng bền vững, mang lại nhiều giá trị gia tăng không chỉ cho hộ kinh doanh mà cho cả các chủ thể liên quan khác như cộng đồng dân cư, doanh nghiệp sản xuất, người tiêu dùng…;
Việc duy trì hoạt động của các làng nghề tái chế trong bối cảnh thực thi chính sách EPR là một quá trình khó khăn, đòi hỏi sự quyết tâm, đồng lòng thực hiện từ các cơ quan quản lý cho đến chính quyền địa phương, đặc biệt là từ các hộ dân trong làng nghề. Tuy nhiên, việc xác định rõ ràng sự cần thiết, không thể chậm trễ trong thực thi chính sách EPR sẽ là đầu mối để quá trình này diễn ra một cách thuận lợi và thống nhất.
Hoàng Thị Phương Lan
Học viện Tài chính
Chu Thị Yến
Học viện Cán bộ quản lý xây dựng và đô thị
Tài liệu tham khảo
1. Đặng Kim Chi (2022), “Ô nhiễm tại các làng nghề Việt Nam và đề xuất giải pháp bảo vệ môi trường 2021 – 2025”, http://tapchimoitruong.vn/uploads/pdf/042022/TC%20Moi%20truong%20CD TV%201-2022_d597f693.pdf, trang 61 – 65.
2. Lại Văn Mạnh (2022), Bài giảng “Kinh tế tuần hoàn – Tổng quan về khung chính sách ở Việt Nam”, Chương trình hội thảo đào tạo Kinh tế tuần hoàn – Yếu tố chính để phát triển đô thị bền vững do Học viện AMC và Viện FES tổ chức.
3. Nguyễn Thái Huyền và cộng sự (2021), “Đồng nát”, NXB Khoa học và kỹ thuật
4. Nguyễn Thi (2021), Bài giảng “Tổng quan về chính sách, pháp luật về kinh tế tuần hoàn, quản lý chất thải rắn sinh hoạt và sự phát triển của EPR ở Việt Nam”, Chương trình Rethinking plastics – Circular Economy Solution for Marine Litter.
5. Đỗ Trang (2022), “Nghịch lý làng nghề tái chế lại gây ô nhiễm môi trường”, https://baophapluat.vn/nghich-ly-lang-nghe-tai-che-lai-gay-o-nhiem-moi- truong-post438352.html.